Enterprise application integration
Tích hợp ứng dụng (EAI) là việc kết hợp cơ sở dữ liệu và workflows của ứng dụng nhằm đảm bảo các hoạt động nghiệp vụ sử dụng thông tin một cách nhất quán. Khi ứng dụng gây thay đổi dữ liệu nghiệp vụ, sự thay đổi đó được lan truyền toàn vẹn, chính xác trong các ứng dụng có liên hệ.
EAI thúc đẩy sự tương hợp giữa vận hành quy trình nghiệp vụ(workflow) của doanh nghiệp với database nhưng cũng chịu tác động của nghiệp vụ kinh doanh để trở nên phù hợp với thực tế kinh doanh của doanh nghiệp. Một ứng dụng mới với EAI mới là một kết nối mới giữa workflow và database mới. EAI quyết định đến hiệu quả vận hành nghiệp vụ của doanh nghiệp, nó liên thông các môi trường dữ liệu như mobile, điện toán đám mây, thương mai điện tử, .. Ngược lại, các quyết định kinh doanh mới lại ảnh hưởng tới việc điều chỉnh, áp dụng triển khai môi trường tích hợp(EAI), hiện đại hóa ứng dụng.Tích hợp cơ sở dữ liệu(database) và quy trình làm việc(workflow)
Tích hợp Cơ sở dữ liệu thường dễ dàng hơn trong hai lĩnh vực EAI. Tích hợp database hướng tới một cơ sở dữ liệu chiến lược dùng chung. Db phải được vận hành và giám sát thông qua các công cụ nhằm phát hiện sự trùng lặp, sai lệch và dư thừa dữ liệu. Chìa khóa thành công của EAI trong tích hợp cơ sở dữ liệu là thiết lập một kho lưu trữ truyền thống hoặc kiến trúc dữ liệu lớn, đi kèm với chính sách quản lí dữ liệu nhằm đảm bảo an toàn và nhất quán. Bảo mật dữ liệu có vai trò quan trọng trong EAI, nó giữ an toàn dữ liệu kinh doanh quan trọng, tuân thủ các quy định luật pháp và các chính sách quản trị kiểm toán nội bộ.
Tích hợp quy trình công việc(workflow) trong EAI thông thường được dựa trên danh sách các API(application program interface) and directories(authentication, authorization, phân quyền truy cập và khai thác tài nguyên, dữ liệu và chức năng hệ thống), message queues or service bus. Do các hệ thống khác nhau sử dụng các định dạng dữ liệu và API khác nhau, việc tích hợp có thể phải sử dụng các công cụ để tạo sự tương hợp về cấu trúc dữ liệu giữa các hệ thống. Nếu không, api hoặc bus phải được sử dụng.
Hiện nay, hai xu hướng phát triển app mới đã có những ảnh hưởng mới đến tích hợp workflow. Đầu tiên, kỹ thuật module hóa ứng dụng thành các thành phần chia sẻ, bao gồm kỹ thuật microservices, nó cung cấp một cơ chế để tách các ứng dụng từ các thành phần tiêu chuẩn. Điều này làm giảm gánh nặng tích hợp workflow vì các ứng dụng sử dụng cùng một giao diện. Xu hướng thứ hai, doanh nghiệp sử dụng nền tảng dịch vụ ( PaaS ) để tích hợp workflow. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp thiết lập một bộ API tiêu chuẩn cho kết nối ứng dụng, thành phần và sử dụng chúng cho các ứng dụng hiện tại và mới. Trong ngắn hạn, EAI được mô hình PaaS phải làm nhiều thao tác hơn vì nó bao gồm toàn bộ các thực thể thành phần của ứng dụng. Tuy nhiên, về lâu dài, nó có thể làm giảm chi phí đối với các tích hợp bổ sung, xóa và thay đổi ứng dụng.
EAI và serverless
Serverless là xu hướng thứ ba và là xu hướng mới nổi về phát triển app, nó thực sự là EAI phức tạp. Các serverless app và app thành phần có kiểu event-driven và nó không như có kiểu tích hợp truyền thống với các cơ sở dữ liệu quan hệ giống như các ứng dụng truyền thống. Một ứng dụng internet ( IoT ) là một ví dụ về trường hợp sử dụng theo hướng event-driven. Việc áp dụng IoT rộng rãi có thể buộc nhiều doanh nghiệp phải chuẩn hóa tích hợp với framework EAI cho toàn công ty để tránh sự phát sinh các vấn đề do kiểu tích hợp mới. May mắn thay, các mô hình thành phần(componentization) và các mô hình PaaS của tích hợp workflow là hoàn toàn phù hợp với các ứng dụng severless và event-driven.
Mô hình hóa EAI và EA
Khi EAI được phát triển rộng rãi, quá trình hiện đại hóa ứng dụng hoặc tái cấu trúc nghiệp vụ kinh doanh phải diễn ra, cấp thiết phải mô hình hóa kiến trúc doanh nghiệp. Mô hình đó có thể được sử dụng để xác định các quy trình nghiệp vụ thông thường, các dữ liệu liên quan và các yêu cầu mới về quy trình làm việc. Dữ liệu này yêu cầu phải có thể bổ sung thông tin có sẵn từ các ứng dụng hiện tại, dữ liệu và thực thi tích hợp workflow đảm bảo các mục tiêu EAI đáp ứng được đối với quá trình tái thiết doanh nghiệp.
Patterns
Phần này mô tả các mẫu thiết kế chung để triển khai EAI, bao gồm các mẫu tích hợp, truy cập và vòng đời. Đây là những mẫu trừu tượng và có thể được triển khai theo nhiều cách khác nhau. Có nhiều mẫu khác thường được sử dụng trong ngành công nghiệp, từ các mẫu thiết kế trừu tượng cao cấp đến các mẫu triển khai đặc biệt cao.
Có hai patterns mà hệ thống EAI thực triển khai:
Mediation (intra-communication): Kết nối nội bộ - Ở đây, hệ thống EAI đóng vai trò là trung gian hoặc môi giới giữa nhiều ứng dụng. Bất cứ khi nào một sự kiện xảy ra trong một ứng dụng (ví dụ, thông tin mới được tạo hoặc một giao dịch mới hoàn thành), một mô-đun tích hợp trong hệ thống EAI được thông báo. Sau đó, mô-đun sẽ truyền các thay đổi cho các ứng dụng có liên quan khác.
Federation (inter-communication): Liên kết liên lạc - Trong trường hợp này, hệ thống EAI hoạt động như front-ended phủ trên nhiều ứng dụng. Tất cả các cuộc gọi từ 'thế giới bên ngoài' đến bất kỳ ứng dụng nào đều được hệ thống EAI tiếp nhận trước. Hệ thống EAI được cấu hình để chỉ hiển thị thông tin và giao diện có liên quan của các ứng dụng cơ bản với thế giới bên ngoài và thay thế đáp ứng tất cả các yêu cầu tương tác với ứng dụng cơ bản.
Cả hai mẫu thường được sử dụng đồng thời. Cùng một hệ thống EAI có thể giữ nhiều ứng dụng đồng bộ với nhau(Mediation), trong khi đó vẫn phục vụ các yêu cầu từ người dùng bên ngoài đối với các ứng dụng này (Federation ).
Access patterns: EAI hỗ trợ cả mẫu không đồng bộ (bắn và quên) và các mẫu đồng bộ, trước đây mẫu điển hình là mediation và sau đó là federation.
Lifetime patterns(mẫu vòng đời): Một hoạt động tích hợp có thể ngắn ngủi (ví dụ như giữ dữ liệu đồng bộ trên hai ứng dụng có thể được hoàn thành trong vòng một giây) hoặc dài hạn (ví dụ: một trong các bước có thể liên quan đến hệ thống EAI tương tác với ứng dụng luồng công việc của con người để phê duyệt khoản vay phải mất hàng giờ hoặc 1 ngày để hoàn thành).
Topologies
Có hai cấu trúc liên kết chính: hub-and-spoke và bus. Mỗi thứ có lợi thế và bất lợi riêng của nó. Trong mô hình hub-and-spoke, hệ thống EAI là trung tâm (hub), và tương tác với các ứng dụng thông qua các nan hoa(mô hình quạt). Trong mô hình bus, hệ thống EAI là bus (hoặc là một mô-đun thường trú trong một bus đã tồn tại hoặc là hạ tầng trung gian với thiết kế message-oriented).
Hầu hết các doanh nghiệp lớn sử dụng vùng(zone) mạng để tạo ra các lớp tự vệ chống lại các mối đe dọa. Ví dụ, một doanh nghiệp thường có một khu xử lý thẻ tín dụng (PCI-compliant), một vùng không PCI, một vùng dữ liệu, một vùng DMZ để truy cập người dùng bên ngoài proxy và vùng IWZ để truy cập người dùng nội bộ proxy. Các ứng dụng cần tích hợp trên nhiều vùng. Hub và mô hình đã nói sẽ hoạt động tốt hơn trong trường hợp này.
Xem thêm
Nhận xét
Đăng nhận xét